.jpg)
Bài mẫu tham khảo:
Traditionally, children have begun studying foreign languages at secondary school, but introducing them earlier is recommended by some educationalists. This policy has been adopted by some educational authorities or individual schools, with both positive and negative outcomes.
The obvious argument in its favour is that young children pick up languages much more easily than teenagers. Their brains are still programmed to acquire their mother tongue, which facilitates learning another language, and unlike adolescents, they are not inhibited by self-consciousness.
The greater flexibility of the primary timetable allows for more frequent, shorter sessions and for a play-centred approach, thus maintaining learners' enthusiasm and progress. Their command of the language in later life will benefit from this early exposure, while learning other languages subsequently will be easier for them. They may also gain a better understanding of other cultures.
There are, however, some disadvantages. Primary school teachers are generalists, and may not have the necessary language skills themselves. If specialists have to be brought in to driver these sessions, the flexibility referred to above is diminished. If primary language teaching is not standardized, secondary schools could be faced with a great variety of levels in different languages within their intakes, resulting in a classroom experience which undoes the earlier gains. There is no advantage if enthusiastic primary pupils become demotivated as soon as they change schools. However, these issues can be addressed strategically within the policy adopted.
Anything which encourages language learning benefits society culturally and economically, and early exposure to language learning contributes to this. Young children's innate abilities should be harnessed to make these benefits more achievable.
Dịch :
Theo truyền thống, trẻ em bắt đầu học ngoại ngữ ở bậc trung học, nhưng một số nhà giáo dục khuyến khích nên cho trẻ học ngoại ngữ sớm hơn. Chính sách này đã được một số cơ quan giáo dục hoặc từng trường học áp dụng, với cả kết quả tích cực và tiêu cực.
Lập luận rõ ràng có lợi cho nó là trẻ nhỏ tiếp thu ngôn ngữ dễ dàng hơn nhiều so với thanh thiếu niên. Bộ não của chúng vẫn được lập trình để tiếp thu tiếng mẹ đẻ, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc học một ngôn ngữ khác và không giống như thanh thiếu niên, chúng không bị ức chế bởi sự tự ý thức.
Tính linh hoạt cao hơn của thời gian biểu chính cho phép các buổi học diễn ra thường xuyên hơn, ngắn hơn và áp dụng cách tiếp cận lấy hoạt động vui chơi làm trung tâm, do đó duy trì được sự nhiệt tình và tiến bộ của người học. Khả năng sử dụng ngôn ngữ của chúng trong cuộc sống sau này sẽ được hưởng lợi từ việc tiếp xúc sớm này, đồng thời việc học các ngôn ngữ khác sau đó sẽ dễ dàng hơn đối với chúng. Họ cũng có thể hiểu rõ hơn về các nền văn hóa khác.
Tuy nhiên, có một số nhược điểm. Giáo viên tiểu học là những người nói chung và có thể bản thân họ không có những kỹ năng ngôn ngữ cần thiết. Nếu các chuyên gia phải được cử đến để điều khiển các phiên này thì tính linh hoạt nêu trên sẽ giảm đi. Nếu việc giảng dạy ngôn ngữ tiểu học không được chuẩn hóa, các trường trung học có thể phải đối mặt với rất nhiều cấp độ khác nhau bằng các ngôn ngữ khác nhau trong đợt tuyển sinh của mình, dẫn đến trải nghiệm trong lớp học sẽ mất đi những thành quả đạt được trước đó. Sẽ chẳng có lợi ích gì nếu những học sinh tiểu học đầy nhiệt huyết lại trở nên mất hứng thú ngay khi chuyển trường. Tuy nhiên, những vấn đề này có thể được giải quyết một cách chiến lược trong khuôn khổ chính sách được thông qua.
Bất cứ điều gì khuyến khích việc học ngôn ngữ đều mang lại lợi ích cho xã hội về mặt văn hóa và kinh tế, và việc tiếp xúc sớm với việc học ngôn ngữ đều góp phần vào điều này. Khả năng bẩm sinh của trẻ nhỏ cần được khai thác để đạt được những lợi ích này nhiều hơn.
cre: Simon